0972 839863

Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 - Luật An Khang

PHẠM TIẾN ĐẠI ( Phó Chánh án TAND Tp Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn) - Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng ao chất lượng xét xử, chống oan sai và bảo vệ các quyền con người cơ bản của người bị buộc tội.


PHẠM TIẾN ĐẠI ( Phó Chánh án TAND Tp Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn) - Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng ao chất lượng xét xử, chống oan sai và bảo vệ các quyền con người cơ bản của người bị buộc tội.

 

 

1. Những vấn đề chung về tranh tụng trong tố tụng hình sự

Tranh tụng hiểu theo nghĩa cơ bản nhất theo Từ điển tiếng Việt thì chính là sự kiện cáo nhau. Đó là tranh luận giữa hai bên có lập trường tương phản nhau, yêu cầu Tòa án làm trọng tài phân xử . Tuy nhiên, đây là cách hiểu thông thường, và ở khía cạnh này, thuật ngữ tranh tụng được dùng để nói chung trong tất các các hình thức tố tụng như: dân sự, hình sự, hành chính… Tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà người đứng ra phân xử trong cuộc tranh đấu này chính là Tòa án.

 

Xét về mặt lịch sử, tranh tụng hình sự là một nội dung cụ thể của nền tư pháp tranh tụng hình thành từ thời cổ đại mà tư tưởng của nó bắt nguồn từ nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp là Plato. Ông cho rằng “Bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện, và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật”. Ý tưởng này của Plato được các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng thành một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã và các quốc gia khác ở Châu Âu, với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” . Như vậy, vấn đề tranh tụng đã được đề cập từ rất lâu trong lịch sử tư pháp, bản chất của nó là hoạt động đối đáp liên tục giữa các bên có lợi ích đối kháng nhau trước người trọng tài đóng vai trò phân xử để đi tìm chân lý.

 

Bên cạnh đó, xét về khía cạnh thuật ngữ pháp lý, tranh tụng được hiểu theo ba nội dụng khác nhau: thứ nhất được hiểu là một mô hình tố tụng; thứ hai được hiểu là một nguyên tắc thuộc tố tụng hình sự; thứ ba được hiểu là phương thức, là giai đoạn thực hiện vai trò của các chức năng đối lập nhau và có quyền ngang nhau trong tố tụng hình sự hay còn gọi là hoạt động tranh tụng. Dù hiểu theo nghĩa nào thì tranh tụng luôn có bản chất là phương thức đi tìm sự thật khách quan của vụ án mà hoạt động tố tụng hình sự muốn hướng tới. Theo nhiều luật gia, phương thức tranh tụng là phương thức có ưu điểm nhất trong việc vừa có thể tìm ra sự thật khách quan của vụ án vừa có thể bảo vệ hữu hiệu quyền con người của người buộc tội và chống oan sai. Có thể hiểu: “Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia” .

 

Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc thực hiện quá trinh tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định của pháp luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó tìm ra sự thật khách quan của vụ án . Như vậy, tranh tụng trong tố tụng hình sự thực chất là quá trình vận động tác động qua lại giữa hai chức năng cơ bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng này được tạo điều kiện “bình đẳng” với nhau trong việc bày tỏ ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm.

 

Nguyên tắc này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới không chỉ ở những nước có mô hình tố tụng tranh tụng mà còn ở những nước có mô hình tố tụng pha trộn (ví dụ như ở Việt Nam). Tuy có sự thể hiện ở các mức độ khác nhau, mặc dù có thể được thể hiện hoặc chưa thể hiện trong văn bản pháp luật cụ thể là BLTTHS thì nguyên tắc tranh tụng vẫn đang là cơ sở định hướng cho việc xây dựng quy định của BLTTHS cũng như thực hiện quá trình giải quyết vụ án để tìm ra sự thật khách quan.

 

2. Sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Mặc dù đã xuất hiện và được thừa nhận từ rất lâu trong lịch sử tư pháp ở các nước phát triển khác, nhưng vấn đề tranh tụng cũng như nguyên tắc tranh tụng rất ít được nghiên cứu ở Việt Nam và đặc biệt cho đến trước năm 2013 thì nó chưa được thừa nhận trong các văn bản pháp lý chính thức của Nhà nước. Sự thừa nhận mang tính sơ khai đầu tiên về tranh tụng ở Việt Nam trong các văn bản chính thức của Đảng đó chính là Nghị quyết 08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định“…việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo …để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” . Tiếp theo đó, vấn đề tranh tụng tiếp tục được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” thể hiện, theo đó: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp” .

 

Như vậy, tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng ao chất lượng xét xử, chống oan sai và bảo vệ các quyền con người cơ bản của người bị buộc tội. Sự thể hiện của vấn đề tranh tụng trong các văn kiện của Đảng là tiền đề và là cơ sở để tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng nói chung trong đó điển hình là hoàn thiện BLTTHS năm 2003 về nguyên tắc tranh tụng.

 

Năm 2013 Hiến pháp mới của Việt Nam được ban hành, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp lý của Nhà nước, tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là định hướng chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS.

 

Vào ngày 27/12/2015, BLTTHS đã được Quốc hội thông qua, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

 

Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ trước Tòa án.

 

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

 

Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

 

Như vậy, đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong BLTTHS, đồng thời từ đó vấn đề tranh tụng cũng đã được thể hiện trong một loạt các quy định khác nhau của Bộ luật, với mục đích tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án. Với nội dung của Điều 26 BLTTHS năm 2015 vấn đề tranh tụng đã được thể hiện qua một số vấn đề sau:

 

Thứ nhất, về thời điểm xuất hiện tranh tụng. Trong tố tụng hình sự, việc xác định sự thật khách quan của vụ án được trải qua các giai đoạn khác nhau, trong mỗi giai đoạn có mục đích và nhiệm vụ khác nhau do các chủ thể khác nhau thực hiện. Hiện nay về việc xác định tranh tụng xuất hiện từ thời điểm nào của tố tụng hình sự có nhiều ý kiến khác nhau: Có quan điểm cho ràng, tranh tụng được bắt đầu muộn hơn thời điểm bắt đầu của quá trình tố tụng hình sự (sau khởi tố vụ án) và kết thúc sớm hơn thời điểm kết thúc của nó (khi bản án có hiệu lực pháp luật); có quan điểm lại cho rằng quá trình tranh tụng bắt đầu cùng với thời điểm bắt đầu của quá trình tố tụng hình sự (cùng với giai đoạn khởi tố vụ án); cũng có quan điểm cho rằng tranh tụng chính là tranh luận tại tòa (tranh tụng chỉ có trong giai đoạn xét xử). Các quan điểm trên đây đều đã đưa ra các lập luận của mình để bảo vệ cho quan điểm đó.

.......